Giờ làm việc : 8H00-17H00 T2-T7

Tế bào gốc trung mô điều trị đái tháo đường típ 2: Đánh giá tổng quan tính an toàn, hiệu quả

Bài viết có sự tham vấn chuyên môn của Tiến sĩ Trịnh Như Thùy – Giám đốc Ngân hàng mô – tế bào gốc DNA.

Bệnh tiểu đường típ 2 đang trở thành mối đe dọa sức khỏe toàn cầu với số lượng người mắc ngày càng gia tăng. Các phương pháp điều trị hiện tại chủ yếu tập trung vào kiểm soát lượng đường trong máu và hạn chế biến chứng, nhưng vẫn chưa có cách nào chữa khỏi hoàn toàn căn bệnh này. Trong bối cảnh đó, tế bào gốc trung mô (MSCs) nhận được nhiều sự chú ý nhờ tiềm năng tái tạo và phục hồi các tế bào tuyến tụy bị tổn thương.

Vậy tế bào gốc trung mô có thực sự an toàn và hiệu quả trong điều trị đái tháo đường típ 2? Bài viết này sẽ đánh giá tổng quan các nghiên cứu khoa học, phân tích ưu nhược điểm cũng như những thách thức của liệu pháp này, từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn khách quan và toàn diện về tiềm năng ứng dụng của tế bào gốc trung mô trong tương lai.

Giới thiệu

Bệnh đái tháo đường típ 2 (T2DM) là một bệnh lý đa dạng, đặc trưng bởi sự rối loạn chuyển hóa lipid, carbohydrate và protein, liên quan đến suy giảm bài tiết insulin, kháng insulin hoặc cả hai. So với đái tháo đường típ 1, đái tháo đường típ 2 phổ phổ biến hơn, chiếm khoảng 90% các ca mắc đái tháo đường, ảnh hưởng đến khoảng 537 triệu người trên thế giới năm 2021 và dự kiến tăng lên 643 triệu vào năm 2030, 783 triệu vào năm 2045 [1]. T2DM chủ yếu xảy ra ở người trên 50 tuổi, nhưng ngày càng phổ biến ở người lớn và trẻ em dưới 20 tuổi. Nếu không được kiểm soát, T2DM có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, bệnh thận mạn tính và bệnh võng mạc tiểu đường.

Các phương pháp điều trị đái tháo đường típ 2 truyền thống bao gồm thay đổi lối sống, chế độ ăn, sử dụng thuốc hạ đường huyết đường uống như liraglutide, semaglutide, dulaglutide, và tiêm insulin hàng ngày. Ở giai đoạn cuối, cấy ghép tuyến tụy là lựa chọn chính, chi phí sẽ nằm mức cao và nguy cơ tái phát lớn [2]. 

Tuy nhiên, các liệu pháp này vẫn sẽ có hạn chế, chẳng hạn như tác dụng phụ của thuốc (độc gan, hạ đường huyết, rối loạn tiêu hóa, nhiễm trùng đường hô hấp), không ngăn được sự suy giảm chức năng tế bào β mà chỉ giảm triệu chứng. Tiêm insulin xâm lấn, khó tuân thủ và có thể gây các vấn đề như phì đại mô mỡ, dị ứng da, nhiễm trùng [3].

Liệu pháp thay thế, đặc biệt là tế bào gốc, đang được nghiên cứu với tiềm năng tái tạo, sửa chữa và tiết các yếu tố quan trọng để duy trì tế bào. Ba loại tế bào gốc chính cho T2DM là tế bào gốc trung mô (MSCs), tế bào gốc tạo máu, và tế bào gốc đa năng cảm ứng (iPSCs). MSCs được sử dụng phổ biến trong các thử nghiệm lâm sàng do khả năng biệt hóa đa dạng, ít gây miễn dịch và có thể lấy từ nhiều nguồn (tủy xương, mô mỡ, cuống rốn,…) [4]. 

Liệu pháp bổ sung tế bào gốc qua đường tĩnh mạch đang được phát triển nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp truyền thống, đặc biệt với MSCs, mang lại hy vọng cho điều trị đái tháo đường típ 2 giai đoạn cuối.

Tế bào gốc trung mô điều trị đái tháo đường típ 2
Hình 1. Sơ đồ dòng chảy – T2DM: T2DM được quy cho nhiều yếu tố nguy cơ, như đã đề cập ở trên. Các yếu tố này có thể gây ra rối loạn chức năng tế bào beta theo thời gian. Khả năng thấp hoặc rối loạn chức năng của các tế bào beta làm giảm tiết insulin của tuyến tụy, từ đó gây ra tình trạng tăng đường huyết. Các yếu tố nguy cơ này cũng có thể dẫn đến tăng sản xuất axit béo ở gan, khiến lượng glucose tiết ra cao hình thành trong gan. Tăng tiết glucose làm giảm chức năng của insulin và dẫn đến kháng insulin. Tăng đường huyết dẫn đến lượng glucose hấp thụ vào cơ thấp và gây ra phản ứng miễn dịch. Điều này làm tổn thương gan nhiều hơn và làm tăng tình trạng kháng insulin.

Phương pháp 

Nguồn dữ liệu và chiến lược tìm kiếm

Dữ liệu được thu thập từ PubMed và clinicaltrials.gov dựa trên các từ khóa như “Type 2 diabetes”, “Stem cell therapies”, “Mesenchymal stem cell therapies”, “BM-MSC”, “UC-MSC”, v.v., và giới hạn trong các thử nghiệm lâm sàng hoàn thành từ năm 2011 đến 2021. Chiến lược tìm kiếm tuân theo hướng dẫn PRISMA, ngôn ngữ giới hạn ở tiếng Anh. Bao gồm cả nghiên cứu can thiệp và quan sát. Các thử nghiệm bị loại trừ nếu thiếu thông tin đánh giá, bệnh nhân có bệnh đồng mắc mạn tính khác, hoặc cỡ mẫu nhỏ (dưới 10 bệnh nhân).

Trích xuất dữ liệu
Việc trích xuất dữ liệu thực hiện theo hướng dẫn của Cochrane về đánh giá hệ thống. Lựa chọn dựa trên loại thử nghiệm (can thiệp hoặc quan sát), đặc điểm người tham gia (tuổi, cỡ mẫu, thời gian mắc T2DM), phương pháp điều trị và hiệu quả đo lường như HbA1c, C-peptide, và glucose huyết tương lúc đói (FPG).

Kết quả
MSCs được xác định qua các marker dương tính (CD90, CD105, CD73, CD146) và âm tính (CD34, CD45, HLA).

Kết quả tìm kiếm
Tổng cộng 70 thử nghiệm được thu thập, sau loại trùng lặp còn 58. Trong số đó, chỉ có 6 nghiên cứu (T1–T6) (Bảng 1) được đưa vào phân tích. Các nghiên cứu còn lại bị loại do thiếu kết quả đầy đủ, thiếu thông tin về phương pháp đánh giá, tập trung vào biến chứng lâu dài của T2DM hơn là chính bệnh, không ngẫu nhiên hóa, hoặc bệnh nhân có bệnh lý khác. Tất cả các nghiên cứu được chọn đều sử dụng MSC, bất kể nguồn gốc.

Bảng 1. Thử nghiệm lâm sàng: Liệu pháp dựa trên MSC cho T2DM

Screenshot 2025 01 03 at 09.31.36

Chú thích

  • IV: Tiêm tĩnh mạch (Intravenous).
  • DPA: Tiêm trực tiếp qua động mạch (Direct Pancreatic Artery Injection).
  • RCT: Thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên
  • FPG: Glucose huyết tương lúc đói (Fasting Plasma Glucose).
  • 2hPG: Glucose huyết tương sau 2 giờ (2-hour Plasma Glucose).
  • HOMA-IR: Chỉ số kháng insulin (Homeostatic Model Assessment of Insulin Resistance).
  • ΔCP30/ΔG30, AUCCP180: Các chỉ số liên quan đến chức năng tế bào beta.

Hiệu quả của liệu pháp điều trị đối với kết quả của bệnh nhân

Các thử nghiệm cho thấy liệu pháp MSCs mang lại hiệu quả trong điều trị đái tháo đường típ 2 bất kể thời gian mắc bệnh hay nguồn gốc mô lấy MSCs. Các thông số nghiên cứu tương đồng và dẫn đến giảm kháng insulin, giảm phụ thuộc insulin. HbA1c và FBG (đường huyết lúc đói) giảm đáng kể, cho thấy chức năng gan được cải thiện. Trong 6 thử nghiệm, hai thử nghiệm (T1 và T4) cho thấy mức C-peptide giảm về mức bình thường, cải thiện chức năng tế bào beta đảo tụy – nguyên nhân chính gây kháng insulin. Ngược lại, bốn thử nghiệm (T2, T3, T5, T6) ghi nhận mức C-peptide tăng lên.

Tác động đến tính kháng insulin

Điều trị bằng MSCs giúp giảm sự phụ thuộc insulin trong tối đa 12 tháng sau tiêm. FBG được đưa về mức bình thường (3,9-5,5 g/mmol) ở tất cả các thử nghiệm. Các chỉ số HOMA-IR (kháng insulin), HOMA-β (chức năng tế bào β) và HOMA-S (độ nhạy insulin) được đo trước và sau điều trị. Chỉ một thử nghiệm không ghi nhận sự giảm kháng insulin đáng kể, trong khi 5 thử nghiệm còn lại không báo cáo thông số này. Tuy nhiên, lượng insulin cần thiết sau điều trị giảm, thể hiện giảm kháng insulin.

dieu tri thai thao duong tip 2
Hình 2. Nhu cầu insulin trước và sau khi điều trị bằng MSCs. Các thử nghiệm cho thấy thời gian theo dõi khác nhau. T1, T3 và T6 cho thấy nhu cầu insulin giảm trong thời gian theo dõi là 3 và 6 tháng nhưng nhu cầu tăng đều đặn sau 12 tháng theo dõi. T5 cho thấy nhu cầu insulin giảm 45% khi theo dõi sau 6 tháng, nhưng nghiên cứu này không được theo dõi thêm. T4 cho thấy nhu cầu insulin giảm 22% trong thời gian theo dõi 12 tháng. Nhu cầu insulin đối với T2 thấp hơn 30% sau 10 tháng theo dõi, sau đó nghiên cứu không được theo dõi thêm.

Tác động đến mức C-peptide

Mức C-peptide lúc đói (sau 8-12 giờ nhịn ăn) là chỉ số hiệu quả để đánh giá insulin do cơ thể sản xuất. Ba thử nghiệm (T2, T3, T5) cho thấy mức C-peptide tăng trên 2 ng/mmol, cho thấy chức năng tế bào đảo tụy hoạt động hiệu quả. Trong thử nghiệm T4, mức C-peptide được coi là chỉ số mạnh mẽ về hiệu quả điều trị. T1 cho thấy C-peptide giảm nhưng không đáng kể. Hầu hết các thử nghiệm ghi nhận C-peptide tăng dần, đạt đỉnh sau 6 tháng và giảm nhẹ vào tháng thứ 12. Trong thử nghiệm T6, mức C-peptide trở về bình thường (0,5-2 ng/mmol) và ổn định sau 12 tháng.

dieu tri dai thao duong tip 2
Hình 3. Nồng độ C-peptide sau khi cấy ghép MSC. T1 và T4 nhận thấy nồng độ C-peptide giảm lần lượt là 12% và 64%. T2, T3 và T5 nhận thấy nồng độ C-peptide tăng lần lượt là 62%, 40% và 34%. Nồng độ T6 tăng 10% sau khi điều trị.

Tác động đến chỉ số HbA1c

HbA1c là chỉ số đánh giá hiệu quả kiểm soát đường huyết trong dài hạn (2-3 tháng). Tất cả các thử nghiệm cho thấy HbA1c giảm đáng kể trong 3 tháng đầu sau điều trị và tiếp tục giảm sau 12 tháng. Trong thử nghiệm T1, mức HbA1c không thay đổi do bệnh nhân bị suy thận nặng.

hình 4
Hình 4. Mức HbA1c trước và sau khi điều trị bằng MSC. Có sự giảm đáng kể mức HbA1c trong tất cả các thử nghiệm. Sau khi theo dõi, mức HbA1c giảm xuống còn 1,2%; 32%; 26%; 7,1%; 31% và 6% cho T1, T2, T3, T4, T5 và T6.

Tác dụng phụ

Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được ghi nhận, ngoại trừ hai thử nghiệm (T1 và T6) có báo cáo về buồn nôn và nôn ở một số bệnh nhân. Trong thử nghiệm T1, một số trường hợp bị hạ đường huyết. Nhìn chung, tất cả các nghiên cứu đánh giá liệu pháp này an toàn và hiệu quả.

Kết luận

Các nghiên cứu này đánh giá tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp MSCs trong điều trị đái tháo đường típ 2 trên 262 bệnh nhân. Kết quả cho thấy MSCs an toàn, không gây tác dụng phụ nghiêm trọng, chỉ ghi nhận buồn nôn và nôn ở một số trường hợp. MSCs có khả năng biệt hóa linh hoạt, ít gây phản ứng miễn dịch và an toàn hơn các liệu pháp truyền thống. Hiệu quả được đánh giá qua các chỉ số HbA1c, C-peptide và FPG, với 70% bệnh nhân có cải thiện đáng kể và duy trì trong 12 tháng.

Việc tiêm MSC qua đường tĩnh mạch hoặc động mạch tụy không ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả. Chi phí điều trị đái tháo đường típ 2 với MSC thấp hơn so với ghép tụy, trong khi tần suất tiêm thấp hơn so với điều trị insulin hằng ngày. Tuy nhiên, cần thêm các nghiên cứu với quy mô lớn hơn, thời gian theo dõi lâu dài và lựa chọn đối tượng dựa trên giai đoạn bệnh để đánh giá hiệu quả bền vững.

Liệu pháp MSCs là phương pháp điều trị đái tháo đường típ 2 an toàn, hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, cần các thử nghiệm lâm sàng lớn hơn và đồng nhất hơn để khẳng định tiềm năng của phương pháp này trong giai đoạn đầu và dài hạn của bệnh T2DM.

Chủ đề:đái tháo đường, tế bào gốc

 

  1. IDF Diabetes Atlas. Diabetes facts & figures; 2021.
  2.       Peracha, J., et al., Risk of post‐transplantation diabetes mellitus is greater in S outh A sian versus C aucasian kidney allograft recipients. Transplant International, 2016. 29(6): p. 727-739.
  3.       Kokil, G.R., et al., Type 2 diabetes mellitus: limitations of conventional therapies and intervention with nucleic acid-based therapeutics. Chemical Reviews, 2015. 115(11): p. 4719-4743.
  4.       Moreira, A., S. Kahlenberg, and P. Hornsby, Therapeutic potential of mesenchymal stem cells for diabetes. Journal of molecular endocrinology, 2017. 59(3): p. R109-R120.
  5.       Nguyen, L.T., et al., Type 2 diabetes mellitus duration and obesity alter the efficacy of autologously transplanted bone marrow-derived mesenchymal stem/stromal cells. Stem Cells Translational Medicine, 2021. 10(9): p. 1266-1278.
  6.       Li, W., et al., Autologous bone marrow stem cell transplantation for the treatment of type 2 diabetes mellitus. Chinese medical journal, 2011. 124(22): p. 3622-3628.
  7.       Hu, J., et al., Long term effect and safety of Wharton’s jelly-derived mesenchymal stem cells on type 2 diabetes. Experimental and therapeutic medicine, 2016. 12(3): p. 1857-1866.
  8.       Chen P, et al., The effect of liraglutide in combination with human umbilical cord mesenchymal stem cells treatment on glucose metabolism and β cell function in type 2 diabetes mellitus. Zhonghua Nei Ke Za Zhi, 2016. 55(5): p. 349-354.
  9.       Jiang, R., et al., Transplantation of placenta-derived mesenchymal stem cells in type 2 diabetes: a pilot study. Frontiers of medicine, 2011. 5(1): p. 94-100.
  10.     Bhansali, S., et al., Efficacy of autologous bone marrow-derived mesenchymal stem cell and mononuclear cell transplantation in type 2 diabetes mellitus: a randomized, placebo-controlled comparative study. Stem cells and development, 2017. 26(7): p. 471-481.
- Tin liên quan -

Bài viết có sự tham vấn chuyên môn của Tiến sĩ Trịnh Như Thùy – Giám đốc Ngân hàng mô – tế bào gốc DNA.   Ung thư luôn là căn bệnh tiềm ẩn nhiều biến chứng nguy hiểm với khả …

Bài viết có sự tham vấn chuyên môn của Tiến sĩ Trịnh Như Thùy – Giám đốc Ngân hàng mô – tế bào gốc DNA. Cấy ghép tế bào gốc tạo máu là liệu pháp miễn dịch tế bào phổ …

Bài viết có sự tham vấn chuyên môn của Tiến sĩ Trịnh Như Thùy – Giám đốc Ngân hàng mô – tế bào gốc DNA. Tế bào CAR-NK được đánh giá cao nhờ khả năng nhận diện chính xác các …

9 1

Tham vấn y khoa

Tiến sĩ

Trịnh Như Thùy

Chuyên môn: Khoa học Y sinh

Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng mô - Tế bào gốc DNA

Bài viết nổi bật
Đọc nhiều
Go to top
Đặt lịch hẹn
1900 2840